Thời cơ vàng của giáo dục đại học
Nếu Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là một trong những cánh cửa lớn để Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới thì Nghị quyết 71-NQ/TW vừa ra đời lại chính là chiếc chìa khóa vàng mở ra cánh cửa ấy.
Một trong các trọng tâm của Nghị quyết 71 chính là đổi mới hệ thống giáo dục Đại học. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc phát triển giáo dục đại học không chỉ là một yêu cầu mà còn là yếu tố then chốt để tạo dựng nền tảng vững chắc cho tương lai của đất nước.
Mục tiêu gần nhất của Nghị quyết 71 là “Phấn đấu ít nhất 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á, ít nhất 1 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín”.
Báo cáo từ Bộ Giáo dục và Đào tạo cho hay, sau gần 40 năm đổi mới, số trường đại học của Việt Nam tăng lên 4 lần, số sinh viên chính quy tuyển mới hàng năm tăng lên hơn 30 lần. Tỉ lệ lao động có trình độ đại học trở lên năm 2024 đạt 13,65%, tăng 2,5 lần so với năm 2009. Giai đoạn 2009-2024, số công bố khoa học có chỉ mục Scopus tăng lên hơn 12 lần, đưa thứ hạng của Việt Nam từ vị trí 65 lên vị trí 45 thế giới. Trong báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới, tỉ suất thu hồi đối với đầu tư cho giáo dục đại học ở Việt Nam ước đạt xấp xỉ 15%, khá cao so mức phổ biến trên thế giới.
Những con số ấy đáng khích lệ, nhưng để giáo dục đại học thực sự đóng vai trò nòng cốt trong phát triển nhân lực trình độ cao, nhân tài, thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia thì còn không ít điểm nghẽn đòi hỏi phải thay đổi từ chiến lược đầu tư, cơ chế chính sách đến hành động thực tiễn.
Theo các nhà giáo dục, để xếp hạng cao, yếu tố tiên quyết mà các trường đại học Việt Nam cần chú trọng là phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ. Các trường đại học phải tạo ra những đội ngũ giảng viên và cán bộ nghiên cứu giỏi, có khả năng công bố các nghiên cứu khoa học đỉnh cao và sáng tạo. Những nghiên cứu này không chỉ phục vụ mục đích học thuật mà còn phải gắn kết với các hoạt động đổi mới sáng tạo, hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp. Đặc biệt, việc nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật có trình độ cao trong các lĩnh vực như STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học) là hết sức quan trọng, nhất là trong bối cảnh thiếu hụt nhân lực chất lượng cao trong các ngành này.
Bên cạnh đó, còn là vấn đề chăm lo cơ sở vật chất và môi trường nghiên cứu, có chính sách đầu tư và thể chế, đồng thời nâng cao năng lực quản lý và hợp tác quốc tế.
Những vấn đề này đã được Nghị quyết 71 đưa ra giải pháp rất cụ thể. Đặc biệt tạo cơ chế tự chủ để các cơ sở giáo dục có thể chủ động trong công tác đào tạo, nghiên cứu và quản trị, không chỉ giúp các trường tự chủ tài chính mà còn tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút nhân tài, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu. Đây có thể được xem như khoán 10, khoán 100 trong giáo dục đại học.
Cùng với đó là sự hỗ trợ của Nhà nước trong vai trò đầu tư: Trong mức chi từ ngân sách cho giáo dục và đào tạo đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách Nhà nước, thì giáo dục đại học được phân bổ ít nhất 5% tổng chi ngân sách Nhà nước và chi cho giáo dục đại học đạt ít nhất 3% tổng chi ngân sách Nhà nước.
Nghị quyết 71 sẽ tiếp tục được thể chế hóa nhưng rõ ràng, giáo dục đại học đang đứng trước thời cơ rất lớn để có những đột phá. Đầu tư cho giáo dục đại học chính là đầu tư cho tương lai quốc gia - là chìa khóa để nâng cao năng suất lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển bền vững.